Cai trị Gia_Long

Là vị vua đầu tiên của một nước Việt Nam thống nhất sau mấy thế kỷ chia cắt, Gia Long hiểu rõ tính mỏng manh của quốc gia mới cũng như các mâu thuẫn dễ lại dẫn tới nội chiến lần nữa.[265] Do đó, ông tiến hành từ tốn các chính sách xây dựng chính quyền tập quyền trung ương; duy trì nhiều chính sách trung dung, mềm dẻo và thực dụng từ thời chiến tranh với Tây Sơn;[265] thay thế các cải cách mang xu hướng mới[266] của nhà Tây Sơn bằng kiểu cai trị và một nền giáo dục nghiêm khắc theo phong cách Nho giáo chính thống.[267][268]

Tổ chức chính quyền

Cuối đời Tây Sơn chính sự rối ren, phong tục hủy hoại nên việc cai trị rất khó khăn, Gia Long phải sắp đặt từ đầu, sửa sang phong tục.[269] Ông đã xếp đặt lại cơ cấu điều hành quốc gia: Tổ chức đại khái theo chế độ nhà Lê: tổ chức triều đình gồm có lục bộ là: Lại, Công, Lễ, Hộ, Binh, Hình do Thượng thư (tương đương như Bộ trưởng ngày nay) đứng đầu và tả hữu Thị lang giúp việc;[270] Đô sát viện do tả hữu Đô Ngự sử đứng đầu với hoạt động can gián vua và đàn hặc các quan;[271] ấn định quyền hạn các chức tước, lương bổng, văn võ theo các cấp bậc theo quan chế Triều Nguyễn). Ông cũng cho thi hành chế độ tiền dưỡng liêm để phòng trừ tệ nạn tham nhũng trong hàng ngũ quan lại nhà Nguyễn.

Lược đồ sơ khởi tổ chức hành chính và quân sự của Việt Nam thời nhà Nguyễn (nguồn gốc từ thời vua Gia Long và được hoàn chỉnh bởi vua Minh Mạng và tồn tại đến thời kỳ người Pháp đô hộ). Lưu ý rằng cấu trúc này tuy tồn tại từ thời Gia Long nhưng một số cơ quan chỉ chính thức xuất hiện từ thời kỳ Minh Mạng như Đô sát viện (với tiền thân là Ngự sử đài thời Gia Long); hay hai cơ quan tư pháp Tam pháp tyĐại lý tự đều do Minh Mạng thành lập. Sử gia Lê Thành Khôi có nhận xét đây là "một cơ cấu đẳng cấp tôn ti nhưng ít chức năng chuyên dụng", vì các cơ quan có thể bao hàm lẫn nhau ở một mức nào đó (như Cơ mật viện và Nội các).

Về vấn đề chọn kinh đô, ban đầu Gia Long định chọn vùng trấn Nghệ An để dời đô từ Thăng Long vào.[272] Nhưng vì có một viên quan tên là Nguyễn Văn Nhân can gián nên ông bỏ ý định đó và vùng Phú Xuân được chọn.[272] Việc xây dựng kinh thành mới được đích thân ông đôn đốc.[273]

Về mặt hành chính, Gia Long phân chia Việt Nam thành 2 tổng trấn: (Bắc Hà, Nam Hà), 2 vùng (miền Trung và Kinh kỳ). Gồm 23 trấn và 4 doanh cụ thể như sau:[270][274]

Tổng trấn Bắc Hà
Nội trấn (5): Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ, Sơn Tây
Ngoại trấn (6): Cao Bằng, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Quảng Yên, Thái Nguyên, Tuyên Quang
Vùng miền Trung
Trấn độc lập (7): Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận.
Vùng Kinh kỳ
Doanh (4): Trực Lệ Quảng Đức, Quảng Bình, Quảng Nam và Quảng Trị.
Tổng trấn Nam Hà
Trấn (5): Biên Hòa, Hà Tiên, Phiên An, Vĩnh Thanh, Vĩnh Tường

Hai vùng tổng trấn Bắc Hà và Nam Hà sẽ do hai quan Tổng trấn đứng đầu cùng với Phó Tổng trấn,[270] hai vị quan Tổng trấn sẽ nắm toàn quyền về luật pháp, kinh tế lẫn quân sự (hệ thống tổ chức này mãi đến đời Minh Mạng mới bị bãi bỏ).[275] Về các Trấn thì có quan Lưu trấn (gồm Trấn thủ, Cai bạ và Ký lục). Dưới Trấn là phủ, huyện, châu với các vị quan đứng đầu lần lượt là Tri phủ, Tri huyện, Tri châu.[270]

Bài viết hay đoạn này có thể chứa nghiên cứu chưa được công bố. Xin hãy cải thiện bài viết bằng cách thêm vào các chú thích tham khảo. Những khẳng định chứa các nghiên cứu chưa công bố cần được loại bỏ.

Ngoài ra, Gia Long nối tiếp các đời chúa Nguyễn trước đó, tiếp tục thực hiện các động thái nhằm xác định chủ quyền của Việt Nam trên khu vực quần đảo Hoàng Sa khi ông cho các hải đội ra khai thác và cắm cờ trên quần đảo này vào năm 1816[276] (trước đó, thời vua Lê Thánh Tông đã khám phá hoặc biết tới nơi này ít nhất từ thế kỷ XV[277] như giáo sĩ Jean-Louis Taberd thuật lại trong Journal of the Asiatic Society of Bengal in năm 1837.[278] Công việc này nối tiếp những hoạt động của các chúa Nguyễn đầu thế kỷ XVII tổ chức khai thác trên các đảo[279]nhà Tây Sơn đã cho các hải đội ra khai thác sản vật[280])[nghiên cứu chưa công bố?]. Mốc năm 1816 là lần đầu tiên kể từ sau thời Hậu Lê, tổ chức hành chính được tổ chức một cách chính quy như thế trên một lãnh thổ thống nhất trong lịch sử Việt Nam.[270]

Chính sách đối ngoại

Trung QuốcVua Gia Khánh của nhà Thanh.

Ngay sau khi chiến thắng nhà Tây Sơn, chiếm cả Bắc Hà, Gia Long liền cho Thượng thư Binh bộ là Lê Quang Định đi sứ sang Trung Quốc để cầu phong vì cả lý do ngoại giao lẫn cả quan niệm Thiên tử của Nho giáo về nước lớn nước nhỏ.[281] Đồng thời với việc xin phong, Gia Long cũng yêu cầu được đổi quốc hiệu là Nam Việt. Ban đầu hoàng đế nhà ThanhGia Khánh không chấp nhận quốc hiệu "Nam Việt" để tránh lầm với nước Nam Việt của Triệu Đà lúc này đã gồm nhiều phần lãnh thổ của Trung Quốc.[281] Tuy nhiên, Gia Long vẫn kiên trì lập trường của mình, dù vua nhà Thanh Gia Khánh đã từ chối tới vài lần, để tỏ cho Trung Quốc biết nếu không cho đổi thì ông sẽ không thụ phong.[281] Cuối cùng Gia Khánh cho đổi Nam Việt thành Việt Nam thì Gia Long mới chấp nhận[282] (tuy vậy cái tên Việt Nam vẫn không được Gia Long ưng thuận cho lắm, đến năm 1813 thì triều đình hầu như là dùng lại tên Đại Việt[283]).

Năm Giáp Tí (1804) nhà Thanh sai quan Án sát sứ tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang tuyên phong tại Thăng Long,[281] vua Gia Long cho người đem đồ sang cống tạ và lập lệ triều cống: 3 năm một lần[282] (hay 2 năm một lần theo nhà nghiên cứu Đinh Dung[281]); và triều kính 4 năm một lần.[281] Vật phẩm cống nạp được giữ nguyên như lệ thời Tây Sơn lập từ năm 1792 với: dược liệu, ngà voi, sừng tê, tơ lụa (và vẫn bỏ tục cống người vàng)... với giá trị kinh tế không lớn lắm.[284]

Pháp

Với người Pháp, ông vẫn tiếp tục những biểu hiện tỏ ra thân mật. Ông trả công hậu hĩnh cho những người đã từng theo giúp mình, một số sĩ quan người Pháp cũng được làm quan trong triều đình Huế với những ưu đãi đặc biệt.[285] Về mặt hình thức vua Gia Long có những quan hệ tốt với nước Pháp, đối xử với họ như những ân nhân. Chính những biểu hiện đó khiến người ta thường đánh giá Gia Long trong bản chất Nguyễn Ánh, phê phán Gia Long về những hành động khi ông đang còn là Nguyễn Ánh. Do vậy, hình ảnh Gia Long trở nên không tốt đẹp vì sự tồi tệ mà Nguyễn Ánh đã tạo ra trong lịch sử dân tộc.[105]

Jean-Baptiste Chaigneau (hay còn gọi là Nguyễn Văn Thắng), người lính Pháp đã theo Gia Long từ trước khi lên ngôi và ở lại làm quan trong triều Gia Long. Sau đó lại trở thành Khâm sứ (consul de France) chính thức đầu tiên của người Pháp ở Đông Dương.

Gia Long mặc dù rất hậu đãi với người Pháp nhưng ông chỉ cho bổng lộc, chức tước mà không ban quyền hạn, do đó họ không chi phối được chính sự nhà Nguyễn. Nhà vua thường cảnh tỉnh các triều thần về mối đe dọa sự an nguy của quốc gia từ sự thông thương và truyền đạo của Pháp. Nhà vua đã nhiều lần tỏ ra rất hài lòng về việc trước kia không nhận được cứu viện của triều đình Louis XVI.[286] Khoảng năm 1818, thuyền chiến Pháp "La Cybèle" chở theo Bá tước Achille de Kergariou cập cảng, xin được gặp nhà vua để bàn việc thực hiện hiệp ước trước kia nhưng do Kergariou không có quốc thư nên Gia Long không tiếp.[287] Khi thuyền trưởng tàu La Cybèle đòi Gia Long thực hiện các điều khoản trong hiệp ước trước kia, ông sai quan đáp lại rằng do trước Pháp không thực hiện thì nay bỏ, phớt lờ hoàn toàn các vị quan người Pháp trong triều đình.[285][288][289][290] Việc thất bại liên tục trong cố gắng tạo dựng mối quan hệ đặc biệt cho người PhápViệt Nam làm cho các ông quan Pháp trong triều chán chường. Đến độ khoảng một năm sau, 1819, khi người Pháp lại tiếp tục quay trở lại qua hai tàu "La Rose" và "La Henri" thì Chaigneau xin đi theo luôn vì lý do "thăm nhà" và "đi tìm vắcxin đậu mùa".[287][290][291] Tuy nhiên, việc ông mời các sĩ quan Pháp huấn luyện quân đội và củng cố thành trì cho nhà Nguyễn cũng làm cho ông trở thành người mở đầu cho ảnh hưởng của người Pháp tại Việt Nam.[292]

Các nước phương Tây khác

Gia Long hầu như không có chính sách giao thiệp chính thức với các quốc gia thuộc thế giới phương Tây khác ngoài Pháp: đơn cử như năm 1804, nước Anh sai một sứ giả tên là John W. Roberts tới xin dâng lễ vật và quốc thư với mong được mở thương quán buôn bán ở Trà Sơn, Quảng Nam nhưng mọi việc chẳng đến đâu. Nguyên nhân thất bại của Roberts là vì một sứ giả tiền trạm trong đoàn là Thuyền trưởng Allan trong khi mang quốc thư của David Lance (một nhà quản lý ở công ty Đông Ấn, cấp trên của Roberts) tới gặp Gia Long thông báo về chuyến viếng thăm của Robert có hơi lỡ lời khi nói chuyện về vấn đề Trà Sơn. Việc này cộng với sự kiện nước Anh chiếm Ấn Độ trước đó và sự dèm pha của 2 người Pháp là Chaigneau và Vannier khiến Gia Long nghi ngờ mục đích của người Anh rồi sau đó từ chối luôn.[293][294] Sau đó họ còn tiếp tục dâng thư xin hai ba lần nữa nhưng đều bất thành.[285]

Đối với người Mỹ, khoảng năm 1803, một thuyền của Hoa Kỳ tên là "Frame" dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Jeremiah Briggs đến Đà Nẵng rồi sau đó, dưới lời khuyên của người Pháp, đã đi ra Huế để gặp Gia Long.[295] Sau khi đến Huế và rời thuyền khoảng 6 ngày, Briggs đã được Gia Long cho phép buôn bán ở Việt Nam.[296] Thời gian sau đó, nhiều thuyền khác của người Mỹ tới Việt Nam: ví dụ ngày 7 tháng 6 năm 1819, một tàu tên là "Franklin" với thuyền trưởng là ông John White đã ghé vào vùng Nam Hà và được quan Tổng trấn đón tiếp chu đáo.[294][296] Sau đó, White rời Việt Nam đến Manila, Philippines rồi quay lại cùng với một tàu khác tên là "Marmion" với thuyền trưởng là John Brown[297] và tìm cách buôn bán ở Việt Nam nhưng bất thành.[298]

Ngoài hai tàu trên còn có một số tàu Mỹ khác viếng thăm Việt Nam nhưng hầu như không có hoạt động gì đáng kể như tàu "Aurora of Salem" của thuyền trưởng Robert Gould hay "Beverly" của thuyền trưởng John Garner.[298] Sau thời gian đó, người Mỹ không còn chuyến viếng thăm Việt Nam lần nào nữa mãi cho đến năm 1831, dưới thời Minh Mạng.[294]

Tuy chính sách nhìn chung là lạnh nhạt vậy, Gia Long vẫn giữ gìn nhưng không thắt chặt mối liên lạc chính thức cũng như các cam kết chính trị với chính phủ phương Tây để khỏi sa vào những lỗi lầm dẫn đến số phận như Ấn Độ.[299] Bên cạnh đó, ông còn thi hành một chính sách "lễ nhu viễn" (giúp đỡ người từ xa tới) của Nho giáo: tàu thuyền của bất kỳ nước nào gặp rắc rối trong vùng lãnh hải của Việt Nam đều được giúp đỡ tùy theo mức độ cần thiết; điều mà các vua Nguyễn sau đều noi theo, tuy nhiên triều đình luôn tránh việc tỏ ra thiên vị đối với bất cứ quốc gia nào.[290]

Với các nước khu vực Đông Nam Á

Với hai quốc gia láng giềng là Chân LạpVạn Tượng, thời kỳ Gia Long cai trị cũng là thời kỳ Việt Nam bắt đầu sự ảnh hưởng của mình và bắt đầu tranh giành ảnh hưởng với Xiêm La.

Chân Lạp

Trước khi Nguyễn Ánh thống nhất quốc gia, Chân Lạp bị Xiêm kiểm soát. Quan nhiếp chính Chiêu Chủy Biện (Chao Phraya Abhaya Bhubet - một người Khmer thân Xiêm) điều hành đất nước thay vua còn nhỏ là Nặc Ấn. Biện lại có hiềm khích với Nguyễn Ánh, có lần xúi giục vua Xiêm đánh Nguyễn Ánh.[300]

Năm Nhâm Tuất (1802), vua Chân Lạp là Nặc Chăn (con Nặc Ấn) không theo Xiêm La nữa mà sai sứ đến xin được thần phục vua Gia Long nước Đại Việt. Ngày 2 tháng 9, Gia Long phong cho Nặc Ông Chân làm Quốc vương Cao Miên rồi sai Ngô Nhơn Tĩnh, Trần Công Đàn làm Chánh phó sứ mang sắc phong và ấn mạ vàng có núm hình lạc đà đến Chân Lạp, làm lễ sách phong, rồi định ra lệ cống tiến mỗi 3 năm 1 lần,[282] lấy năm Đinh Mão (1807) làm đầu.[301]

Ba người em của Nặc Ông Chân (Ang Chan II) là Nặc Ông Nguyên (Ang Suguon), Nặc Ông Em (Ang Em), và Nặc Ông Đôn (Ang Duong) muốn tranh quyền của anh mình nên sang Xiêm La cầu cứu. Xiêm La đòi Nặc Ông Chân chia quyền nhưng ông từ chối, Xiêm La liền cho quân sang đánh buộc Nặc Ông Chân chạy sang cầu cứu Việt Nam. Vua Gia Long viết thư trách cứ Xiêm La. Xiêm La đáp lại là họ chỉ giúp anh em Nặc Ông Chân giảng hòa chứ không đối kháng với Việt Nam. Gia Long liền cho Lê Văn Duyệt kéo 10.000 quân sang buộc Xiêm La cho Nặc Ông Chân về nước và rút quân hoàn toàn ra khỏi Chân Lạp.[302] Lê Văn Duyệt dâng sớ xin xây thành Nam Vang (Phnom Penh) và thành La-Lêm. Khi xây xong Gia Long cho Nguyễn Văn Thoại đem 1.000 quân sang trấn giữ và xác lập quyền "bảo hộ" của Việt Nam tại Chân Lạp.[303]

Xiêm LaCây vàng cây bạc (bunga mas dan perak), vật phẩm tượng trưng cho sự thần phục mà các chư hầu phải dâng lên vua Xiêm. Nguyễn Ánh đã sáu lần dâng cây này để đổi lấy sự hậu thuẫn của vua Xiêm trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn. Ông cũng tự động ngưng việc nộp cây ngay sau khi tiêu diệt nhà Tây Sơn vào năm 1802.

Đối với Xiêm La, khi còn đang trong cuộc chiến gian khổ chống lại nhà Tây Sơn, Gia Long từng phải cúi mình xin trở thành một chư hầu, hòng để tranh thủ sự hậu thuẫn của nước này. Trong thời gian đó, ông đã sáu lần cho sứ mang cây hoa vàng hoa bạc sang tặng vua Rama I như một biểu hiện thần phục. Nhưng ngay khi đánh bại nhà Tây Sơn vào năm 1802, việc cống nạp này lập tức chấm dứt, và vị thế nhà Nguyễn được phục hồi như một quốc gia độc lập. Dù vậy, quan hệ thân thiện Việt-Xiêm vẫn duy trì không đổi, và dù ngay sau khi lên ngôi gặp phải vấn đề Chân Lạp thì mối quan hệ Việt Nam-Xiêm La vẫn được cả hai nước cố gắng giữ gìn.[304] Tháng 8 năm 1788, vừa lấy lại thành Gia Định, Nguyễn Ánh liền sai người sang Xiêm báo tin.[305] Tháng 3 năm 1789, Nguyễn Ánh cho Xiêm 8.800 phương gạo cứu đói.[306] Tháng 11 năm 1789, nước Tà Ni (một quốc gia Hồi giáo nhỏ ở miền Nam Thái Lan) sai sứ sang đề nghị Nguyễn Ánh hợp sức đánh Xiêm. Nguyễn Ánh không những từ chối mà còn báo tin cho Xiêm hay, vua Rama I cảm tạ và đem quân sang đánh nước Tà Ni.[307]

Tháng 11 năm 1790, Nguyễn Ánh lại sai sứ giả là Nguyễn Văn Nhàn, Nguyễn Tiến Lượng sang Xiêm tặng quà và giải tỏa nghi ngờ. Trước đó, quan phụ chính Chân Lạp là Chiêu Chủy Biện (Chao Phraya Abhaya Bhubet) cho người tâu với vua Xiêm là Nguyễn Ánh đang đúc súng lớn, chuẩn bị quân binh đánh Xiêm. Sứ giả sang, vua Xiêm hết nghi ngờ Nguyễn Ánh.[308] Tháng 5 năm 1791, Xiêm La cho sứ sang tặng quà và báo tin Vạn Tượng vừa đánh Tây Sơn, Nguyễn Ánh cho sứ sang Xiêm cảm ơn.[300] Tháng 2 năm 1792, vua Xiêm La là Rama I truyền lời sứ giả nói với Nguyễn Ánh rằng Xiêm muốn giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn ở miền thượng đạo đồng thời trả thù giúp Vạn Tượng, đổi lại Nguyễn Ánh phải giao miền Long Xuyên, Kiên Giang cho Mạc Công Bính, giao Ba Xắc cho Chân Lạp. Nguyễn Ánh không đồng ý.[309] Tháng 9 năm 1793, vua Rama I sai phó vương cùng với đại tướng Phi Nhã Chất Tri mang 5 vạn quân sang Nam Vang và 500 chiến thuyền ở Hà Tiên muốn giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn nhưng Nguyễn Ánh từ chối.[310]

Nguyễn Ánh còn nhiều lần bày tỏ sự lo ngại của ông nếu ngôi vua Xiêm bị bỏ trống, và ông đã nhiều lần gây áp lực lên triều vua Rama I chọn ra một thái tử nối ngôi (đặc biệt vào các năm 18041805).[304] Cuối cùng vua Xiêm cũng chọn Rama II, một người được triều Gia Long yêu thích.[304] Tuy vậy, nhà vua vẫn đề phòng Xiêm La, điều này được thể hiện qua việc ông đã nhiều lần xét đến việc thành lập liên minh với Miến Điện để chống Xiêm (khi này Miến Điện và Xiêm La đang có chiến tranh) nhưng vẫn chưa quyết, để rồi sau này vị vua nối ngôi là Minh Mạng từ chối hẳn việc thành lập liên minh với Miến Điện.[311]

Vạn TượngPhủ Trấn Ninh bị Gia Long cắt cho Vạn Tượng (nay là Lào).

Đối với Vạn Tượng, Việt Nam và Xiêm La hình thành một thế giằng co ảnh hưởng: vua Vạn Tượng Inthavong trước kia có cùng hỗ trợ Gia Long đánh Tây Sơn thường tỏ ra ngả về phía Việt Nam nhiều hơn là phía Xiêm dù lúc này cả Xiêm và Việt Nam đều đang có ảnh hưởng tại Vạn Tượng.[311] Gia Long đưa ra nhiều chính sách chiêu dụ Inthavong: tại Việt Nam, Inthavong được đón tiếp dưới danh hiệu quốc vương, trong khi ở Xiêm ông vua này chỉ được gọi là Chao (lãnh chúa); và vào khoảng năm 1802 Gia Long công nhận quyền cai trị của Inthavong trên đất Xiang Khouang.[311] Vị vua nối ngôi của Inthavong là Chao Anou cũng tiếp tục chính sách tương tự, và Việt Nam tuy vẫn đối xử tốt với Vạn Tượng nhưng vẫn vị nể Xiêm trong vấn đề về Anou.[311]

Năm 1802, Gia Long còn đem đất Trấn Ninh cắt cho vương quốc Vạn Tượng của A Nỗ (Anouvong). Phủ Trấn Ninh gồm 8 huyện ở phía tây tỉnh Nghệ An (chưa rõ bao nhiêu dặm, nhưng ước chừng lớn gấp đôi tỉnh Nghệ An hiện nay). Đời Lê Thánh Tông đánh phá Ai Lao đã lấy đất đặt làm phủ này. Khi Gia Long lên ngôi đã cắt vùng này cho Vạn Tượng để lôi kéo sự ủng hộ. Như vậy sau hơn 300 năm thuộc về lãnh thổ Đại Việt dưới thời nhà Hậu Lê và nhà Tây Sơn, Trấn Ninh đã bị cắt cho nước khác. Đây là lần bị mất lãnh thổ lớn thứ 2 trong lịch sử Việt Nam, chỉ đứng sau việc Tự Đức cắt Nam Kỳ lục tỉnh cho thực dân Pháp.

Vua Minh Mạng (con trai Gia Long) từng khen Trấn Ninh là "đất ấy hiểm yếu, đời Lê trước Lê Duy Mật chiếm giữ hơn 30 năm, nhà Lê không làm gì được, hình thế vững chắc như thế đấy". Minh Mạng biện hộ cho việc Gia Long cắt vùng đất này cho Vạn Tượng là "không tính đến tiết nhỏ".

Chính sách kinh tế

Đồng tiền đúc ở thời Gia Long. Hai mặt trước sau với bốn chữ "Gia Long thông bảo" (嘉隆通寶) và "Thất phân" (七分).

Nhìn chung, Gia Long không quan tâm đến thương mại.[312] Ông đã nhiều lần từ chối người Anh khi họ đến xin được mua bán, ngay cả người Pháp khi đến mua bán cũng không được thuận lợi mấy.[285] Ông không cho phép người phương Tây lập phố buôn trên lãnh thổ Việt Nam,[313] triều Nguyễn dưới thời ông không khuyến khích cũng như không chào mời các thuyền buôn phương Tây.[313] Triều đình bấy giờ không có ý đóng cửa với phương Tây nhưng theo cách nhìn của hàng ngũ Nho sĩViệt Nam, việc giao thương với phương Tây là không đáng tin cậy; cũng đồng thời với đó là sự lo ngại sự xâm lược bằng quân sự và truyền giáo của họ.[314] đã dẫn đến chính sách như trên.

Ngoài một số trung tâm thương mại thành thị được phát triển ở các thành phố và cảng biển chính, phần lớn hoạt động mua bán vẫn diễn ra trên các con sông. Triều đình nắm giữ độc quyền thương mại ở các mặt hàng có giá trị cao như ngà voi, sừng nai, bạch đậu khấu, vàng...[6] Mức thuế mua bán cao, việc cấp giấy phép khó khăn trong việc xuất khẩu gạo, muối, và kim loại cũng gây kìm hãm sự phát triển của thương mại.[315] Ngoại thương bị hạn chế, dân chúng bị cấm giao thương bằng đường biển, triều đình cấm xuất khẩu các loại gỗ quý và đánh thuế cảng, thuế xuất khẩu cao;[314] quan hệ thương mại quan trọng với Trung Quốc nằm trong tay các thương gia người Hoa và quan lại, trong khi các thương gia người Việt thì bị hạn chế, chỉ được phép buôn bán trong nước.[6]

Về mặt nông nghiệp, ruộng đất cũng được quản lý bằng các điền bạ ghi rõ về tình trạng, vị trí thứ hạng đất ruộng. Mỗi làng làm 3 quyển gửi lên bộ đóng dấu, 1 quyển sẽ lưu lại bộ, 1 quyển lưu lại tỉnh và 1 quyển gửi trả về làng. Bên cạnh đó, để bảo đảm đất cày cho mọi người nông dân, Gia Long ngay từ khi mới lên ngôi đã ra lệnh cấm trao đổi buôn bán ruộng công; và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công điền công thổ trong đó cho phép điển cố[e] tối đa 3 năm.[316][317] Ngoài ra, Gia Long còn cho ban Lệ quân điền cũng về vấn đề ruộng công này, trong đó thời hạn chia ruộng đất được rút xuống ba năm và đối tượng chia ruộng trước hết nhằm ưu đãi quan lại và quân lính.[318] Tuy nhiên, chính sách này không hiệu quả lắm do tỉ lệ ruộng công còn rất ít, mà tỉ lệ cấp lại lớn hơn hẳn thời Lê sơ.[319] Và tình trạng người dân không có đất vẫn còn là một vấn đề.[6] Nhà Nguyễn thời vua Gia Long nhìn chung rất đề cao và khuyến khích nông nghiệp, tuy nhiên lại tỏ ra thiếu kinh nghiệm trị thủy các vùng phía Bắc dù cho nhà vua đã cho đầu tư đắp đê không ít.[320]

Về công nghiệp, triều đình nắm độc quyền trong ngành khai thác khoáng sản,[6] họ cho các thương nhân người Hoa khai thác để thu thuế.[285] Các phường đội, thợ thủ công đều chịu sự quản lý của triều đình, hầu hết thợ có kỹ năng và nguyên liệu thô đều được đưa vào các xưởng thủ công của triều đình ở Huế.[6]

Để giải quyết vấn đề tiền tệ, Gia Long cho lập xưởng đúc tiền tại Bắc thành, về sau ở cả Gia Định thành và ở các trấn để đúc tiền đồng và tiền kẽm, ngoài ra còn cho đúc vàng bạc theo nén và lượng với tỉ lệ quy đổi một lượng vàng đổi lấy 10 lượng bạc để phục vụ cho lưu thông thương mại trong nước.[321] Mỗi đồng tiền kẽm nặng 7 phân, một mặt in chữ "Gia Long thông bảo", một mặt in chữ "thất phân", mỗi quan tiền nặng 2 cân 10 lạng.[321]

Đồng thời với tiền tệ là việc đo lường: Gia Long cho chuẩn hóa lại các thước vuông đo ruộng có trước đó, chế ra thước đo ruộng mới là loại thước đồng hai mặt khắc chữ: một mặt Gia Long cửu niên thu bát nguyệt và mặt kia là ban hành đạc điền xích, công bộ đường kính tạo.[321] Năm 1813, vua Gia Long cho làm ra cân thiên bình, cấp cho các doanh, trấn, để dùng vào việc cân đo kim loại và sản vật địa phương. Riêng hai kim loại màu là vàng và bạc thì dùng cân trung bình.[321]

Chính sách thuế khóa

Dưới thời Gia Long, việc thu thuế được tổ chức lại, phân ra nhiều thứ thuế kèm theo các chính sách quản lý và miễn trừ thích hợp.[322] Thứ thuế quan trọng đầu tiên là thuế điền (hay thuế ruộng, thuế tính trên ruộng): ruộng được chia làm 4 hạng chịu 3 mức thuế khác nhau qua hình thức nộp thóc:[323]

Loại ruộngThuế (thăng thóc)
Nhất đẳng20
Nhị đẳng15
Tam đẳng10
Đồng niên10

Loại thuế thứ hai là thuế đinh (thuế thân), đánh theo từng địa phương, tính theo từng suất đồng niên.[323] Ban đầu triều Gia Long còn có cả việc phân biệt cả cư dân chính hộ (dân cư trú lâu) và khách hộ (dân từ nơi khác đến cư trú) khi tính thuế; nhưng lệ này về sau không được duy trì:[324]

VùngThuế thânMân tiềnĐiệu tiềnCước mễ
Nghệ An ra đến nội ngoại Thanh Hóa1 quan 2 tiền1 tiềnkhông có2 bát
Năm nội trấn Bắc thành và phủ Phụng Thiên1 quan 2 tiền1 tiền6 tiền2 bát
Sáu ngoại thành trấn Bắc thành6 tiền1 tiền3 tiền1 bát

Ngoài hai loại thuế trên còn có thuế sản vật. Thuế sản vật thường đi kèm với các ưu đãi miễn giảm các loại thuế khác, ví dụ về một số loại thuế sản vật:[316]

Thuế quế
Vùng quếMức thuế (nộp theo đồng niên)
Nghệ An120 cân
Thanh Hóa70 cân
Sau khi nộp sẽ được giảm trừ thuế đinh.

Nếu tìm được cây quế phải báo quan làm giấy để đẵn mới hợp pháp. Quan sẽ lấy 1 nửa, dân 1 nửa.

Thuế yến sào
ThuếMức thuế
Đồng niên8 lạng
Đánh vào người đi lấy yến ở các đảo hạt Quảng Nam.

Sau khi nộp sẽ miễn việc binh lính.

Ngoài các thứ thuế trên, còn có các loại thuế: thuế sâm, thuế hương, thuế chiếu, thuế gỗ, thuế từ việc cho phép khai thác mỏ đều có quy định riêng, thường tiền thuế sẽ nộp bằng tiền hay là bằng sản vật.

Việc thu thuế sẽ theo các định kỳ được gọi là các vụ thuế chia theo các vùng:[325]

VùngVụ thuế
Bình Thuận ra tới Quảng Bìnhtháng 4 đến tháng 7
Nghệ An ra đến ngoài Thanh Hóa và các trấn ở Bắc thành2 vụ: tháng 4 đến tháng 6; tháng 10 đến tháng 11

Thuế sẽ được giảm nếu địa phương gặp thiên tai địch họa dựa theo mức độ thiệt hại. Ngoài ra, nếu nhà nào có người đi làm đường, đào sông, xây thành... cũng được giảm thuế.[321] Nếu đã nộp thuế sản vật thì miễn thuế đinh,[325] thuế dành cho các thương thuyền nước ngoài cũng được định lại: cứ dựa trên kích thước thuyền mà đánh thuế nhiều hay ít.[316] Để tạo cơ sở tính thuế,[6] cùng với điền bạ (để quản lý ruộng đã nêu) dân chúng được quản lý qua sổ đinh bạ: 5 năm làm một lần mọi người từ thường dân tới quan lại từ 18 tuổi đến 59 tuổi đều phải được thống kê vào sổ đinh.[316]

Nhìn chung, thuế khóa mà người dân phải chịu vào thời Gia Long nặng hơn so với thời nhà Tây Sơn. Thời vua Quang Trung, nhà Tây Sơn chỉ giữ lại thuế đinh 1 quan 2 tiền, bỏ hẳn thuế điệu, đến thời Gia Long thì người dân phải đóng thêm 3 tiền hoặc 6 tiền thuế điệu, cộng thêm 1 hoặc 2 bát gạo. Một giáo sĩ người Pháp tên Guérard nhận xét rằng Gia Long đánh thuế quá nặng lên dân chúng: "Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và lộng hành làm cho người ta rên xiết hơn cả ở thời Tây Sơn; thuế má và lao dịch thì tăng lên gấp ba". Đối với miền núo, Gia Long ban hành các loại thuế đánh vào lâm thổ sản ở vùng này, làm cho "dân Man quanh năm nộp thuế không lúc nào rỗi[326], hậu quả là "dân phải nhặt củ rau và quả ở núi để ăn cho no bụng"[327].

Chính vì việc tăng thuế khóa quá nặng so với thời Tây Sơn nên dân chúng rất bất bình, góp phần tạo nên nhiều cuộc khởi nghĩa chống nhà Nguyễn vào thời Gia Long và tâm lý hoài niệm triều Tây Sơn của người dân Việt Nam trong thế kỷ 19.

Chính sách xã hội

Quốc Tử Giám tại Huế, một trong những công trình đầu tiên Gia Long cho xây dựng để phát triển lại giáo dục thời hậu chiến. Dưới thời vua Gia Long, Minh Mạng, Quốc Tử Giám được xây tại địa phận An Ninh Thượng, huyện Hương Trà, cách kinh thành Huế chừng 5 km về phía tây, trường nằm cạnh Văn Miếu Huế, mặt hướng ra sông Hương. Vào năm 1908, thời vua Duy Tân, Quốc Tử Giám được dời vào phía đông nam Hoàng thành Huế (tức vị trí như ảnh hiện nay).

Thấy các quan đầu triều của mình đều chỉ là quan võ, Gia Long lưu ý đến việc học hành thi cử trong nước để tuyển lựa quan văn. Ông tổ chức lại các Văn Miếu, thờ Khổng Tử, thực hiện chính sách trọng Nho học.[328] Ông cho thành lập Quốc Tử GiámPhú Xuân để dạy con quan, tổ chức thi Hương theo định kỳ để tuyển chọn nhân tài.[328] Ngoài ra, ông còn đặt thêm chức đốc học ở các trấn, và cho dùng những người có công danh ở đời nhà Lê, để coi việc dạy dỗ ở địa phương.[328] Ông cũng sai Binh bộ Thượng thư[329] Lê Quang Định làm bộ sách 10 quyển Nhất thống địa dư chí vào năm 1806,[330] ghi nhận về tình hình địa lý, chính trị... các mặt của Việt Nam trên cơ sở điều tra đã thực hiện trước đó,[330] đồng thời cho tìm các sách dã sử về nhà Lênhà Tây Sơn để sửa lại quốc sử.[329] Thời của Gia Long là thời thịnh của thơ văn chữ Nôm với nhiều tác phẩm lớn: Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, Truyện Kiều của Nguyễn Du; và một bài văn tế tướng sĩ không rõ tác giả do Nguyễn Văn Thành ra chủ tế.[329]

Về luật pháp, Gia Long cho soạn bộ luật mới có tên gọi là Hoàng Việt luật lệ (còn được gọi là "luật Gia Long"), do Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành chủ biên bao gồm 22 quyển và 398 điều,[331] bộ luật này, dù có đôi chỗ cải biến, gần như chép nguyên mẫu từ luật của nhà Thanh[328] cho nên nhìn tổng thể khá khắc nghiệt và không được tiến bộ như bộ luật Hồng Đức của nhà Lê.[7]

Là vua một nước mới thống nhất sau mấy trăm năm nội chiến với nhiều phe phái tranh giành nhau xuất hiện liên tục,[332] cộng thêm chính sách thuế khóa cao và cưỡng bức xây dựng lớn;[333] sự bất bình của tầng lớp sĩ phu hoài nhớ Lê triều,[334] và nạn đói thường xuyên diễn ra ở vài khu vực khắp nước nên Gia Long thường xuyên phải đối mặt với các phong trào chống đối ở khắp ba miền Việt Nam (đặc biệt ở khu vực Bắc Hà) với khoảng 73 phong trào trong suốt thời kỳ ông trị vì.[335]

Với khu vực Bắc Hà, ông thi hành một chính sách hai mặt:[336] một mặt Gia Long tỏ vẻ tôn trọng nhà Hậu Lê, ông phong quan tước cho con cháu nhà Lê (ví dụ như Lê Duy Hoán được phong 1016 tự dân và 10.000 mẫu tự điền để lo việc thờ cúng các vua Lê);[337][338] vời dùng các cựu thần Lê triều như Nguyễn Duy Hợp, Lê Duy Đản, Ngô Xiêm...[334] Ngoài ra, ông còn cho giữ gìn lăng tẩm, đền miếu các vua Lê, cho sửa chữa lại Lam Kinh, xây đền Lê Bố Vệ, cho tổ chức lễ thờ tế vua Lê ở cấp quốc gia hằng năm cũng như "phong bách thần trong nước cho triều Lê".[336] Một mặt Gia Long tìm cách làm giảm tình cảm nhớ về nhà Lê của dân chúng bằng cách tiêu hủy những di sản của triều Lê: cho phá hoàng thành Thăng Long nhà Lê xây và thay thế bằng hoàng thành nhỏ hơn rất nhiều, thay chữ Long (龍) mang nghĩa là rồng trong Thăng Long (升龍) thành chữ Long (隆) mang nghĩa là thịnh vượng; và hủy sáu trường thi Hương ở Bắc Hà.[336]

Khu vực Nam Hà thì chủ yếu chỉ xuất hiện nạn cướp bóc nhỏ hay gây rối loạn mất an ninh; mãi đến khi Gia Long cử Lê Văn Duyệt vào làm Tổng trấn cai quản vùng này thì tình hình mới ổn định.[339] Các dân tộc thiểu số như người Khmer vẫn được cho phép thực hành Phật giáo tiểu thừa, và quyền tự quyết các vấn đề ở địa phương; người Chăm vẫn có quốc gia và vua riêng trên danh nghĩa dưới quyền "bảo hộ" của chính quyền Việt Nam tại khu vực Ninh Thuận và Bình Thuận.[265]

Vấn đề đường sá được Gia Long chú trọng vì tầm quan trọng cả về kinh tế và chính trị: ông lệnh cho các quan phải đào đắp sửa sang các con đường, dân địa phương cũng phải tham gia vào việc làm cầu đắp đường theo tỷ lệ 15.000 trượng đường thì phát cho dân 10.000 phương gạo. Từ ải Nam Quan đến Bình Thuận có chừng 98 nhà trạm, mỗi trạm cách nhau chừng 4.000 trượng, dùng để làm nơi khách bộ hành nghỉ ngơi. Từ Bình Thuận trở vào phía Nam đến Hà Tiên thì đi bằng đường thủy.[340] Ở các trấn lại đặt ra kho thóc chứa thóc gạo, để phòng khi mất mùa đói kém thì lấy phát chẩn.[340] Đồng thời, Gia Long còn cho lập các kho vận trữ lúa gạo (kho Bình Chuẩn Thương), cắt cử quan lại chăm lo việc cứu đói dân chúng. Ngoài ra, ông còn tiếp tục chính sách khai hoang vùng đồng bằng sông Cửu Long: triều đình bỏ tiền đào kênh Vĩnh Tếkênh Thụy Hà để tạo cơ sở cho việc khai hoang và xác định biên giới Việt NamCao Miên.[331][341] Còn ở Bắc Hà, ông cũng thực hiện việc đắp đê, kè với một khối lượng "lớn nhất so với các triều trước" và cho lập Nha Đê Chính để quản lý vấn đề này.[320][331]

Chính sách tôn giáo

Về mặt tôn giáo, triều vua Gia Long mang nhiều tính thế tục,[265] ông từ chối không đưa Phật giáo trở thành Quốc giáo như các triều hay Trần dù ông từng có một thời gian sinh sống rất dài tại Thái Lan cũng như mối quan hệ rất sâu đậm với vua Rama I; cũng như ông phủ quyết ngay lập tức các đề nghị thử tiếp nhận Công giáo La Mã.[265] Bên cạnh đó, Gia Long xem Nho giáo, cùng với các khuôn mẫu tổ chức chính quyền kiểu Trung Quốc, là hệ tư tưởng chính thống trong xây dựng và cai trị quốc gia,[265] cho nên chính sách về tôn giáo của Gia Long là ngược hẳn so với chính sách tôn giáo của nhà Tây Sơn.[6]

Dưới triều của ông, đã có nhiều chỉ dụ quy định nên nhiều chính sách có tính ngược đãi đối với những người theo Phật giáoLão giáo.[6] Công giáo cũng được khoan thứ vì mối quan hệ của ông với người Pháp và các giáo sĩ không bị cấm đoán và được tự do đi truyền đạo khắp nơi.[342] Nhìn chung, chính sách của Nguyễn Ánh đối với Công giáo là một chính sách không bảo vệ cũng như không bài bác.[343] Tuy vậy, Gia Long vẫn đề cao cảnh giác và ra nhiều biện pháp phòng ngừa và hạn chế vấn đề truyền bá đạo Công giáo xâm hại tới trật tự xã hội, văn hóa truyền thống; và nguy cơ các thế lực phương Tây thâm nhập Việt Nam thông qua các giáo sĩ.[344][345]

Chính sách quân sự

Cửu vị thần công do Gia Long cho đúc sau khi thắng Tây Sơn.

Vì cuộc nội chiến kéo dài với Nhà Tây Sơn, Gia Long đã có được một đội quân tương đối mạnh, một số đơn vị được trang bị khí tài và tổ chức theo kiểu phương Tây. Một người nước ngoài vào thời gian này nhận xét: "... Những cuộc hành quân của vua Nam kỳ [ý chỉ Nguyễn Ánh] giống nhau một cách kỳ lạ với những cuộc hành binh của Đệ Nhất Cộng hòa Pháp, giống nhau về tổ chức, về vũ khi và nhất là về ảnh hưởng của các nhà quân sự Pháp cuối thế kỷ XVIII".[346]

Sau chiến tranh, ông ban thưởng cho binh lính, lập đền thờ người tử trận, rồi tinh giản quân đội bằng cách cho những người lính già giải ngũ.[322] Sau đó, ông đặt ra cách tuyển quân linh hoạt: khu vực từ Quảng Bình vào đến Bình Thuận thì cứ 3 nam tuyển 1 lính; từ Biên Hòa trở vào thì cứ 5 nam đinh tuyển lấy 1 lính; từ Hà Tĩnh trở ra đến 5 nội trấn ở Bắc thành thì cứ 7 nam đinh tuyển lấy 1 lính. Còn 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên, thì cứ 10 nam đinh tuyển lấy một lính.[322] Về bộ binh, ngoài các đơn vị lính thường là lính cơ, lính mộ ở các trấn; khu vực kinh thành có thêm các loại lính tinh nhuệ gồm thân binh, cấm binh, tinh binh. Thân binh chia làm các vệ gồm 500 người kèm thêm 50 người tập quân nhạc. Ngoài ra quân lính còn được tổ chức thành các biền binh ban lệ gồm 3 phiên: trong đó 2 phiên về quán, còn một phiên ở lại thay đổi cho nhau luân phiên.[322] Tổng số binh của triều đình lên đến gần 140.000 và có thể huy động tăng thêm rất lớn (theo M. Chaigneau ghi nhận thì thường trực tầm 8 vạn và tổng số có thể huy động khi cần là 20 vạn quân).[346][347]

Vũ khí cho quân đội gồm súng tay thạch cơ điểu thương (súng điểm hỏa bằng đá lửa), đại bác và gươm giáo.[322] Khu vực kinh thành có ba trường tập bắn dành cho quân đội.[322] Ngoài ra, Gia Long còn cho chế tạo nhiều loại vũ khí và trang bị theo mẫu đã mua của phương Tây, chính sách mà vua Minh Mạng cũng tiếp nối thực hiện.[348] Lực lượng hải quân cũng được chú trọng vì địa thế đường biển dài của Việt Nam. Gia Long cho tuyển mộ các cư dân sống gần biển về doanh Quảng Đức và doanh Quảng Nam lập thành 6 vệ thủy quân đóng tại kinh thành.[322] Còn ở các cửa biển đều có một cơ lính thủy và đặt súng để phòng thủ và trông giữ việc đi lại của tàu nước ngoài.[322] Ngoài ra, người ta còn ghi nhận là vua Gia Long đã cho đóng loại thuyền buồm cỡ lớn bọc đồng kiểu Tây để đi lại tuần tra biển.[322]

Các cuộc khởi nghĩa nông dân

Thời Gia Long, trong 18 năm đã có khoảng 90 cuộc khởi nghĩa nổ ra trên cả nước.[5]

Các cuộc nổi dậy vẫn nổ ra ở khắp các khu vực Bắc Hà từ Nghệ An tới khu vực Tây Bắc với nhiều lý do khác nhau, trong đó đó danh nghĩa tôn phù nhà Lê trở thành một lý do nổi dậy phổ biến (ngoài ra còn có cả một số trường hợp xưng con cháu triều Lýtriều Mạc[349]).[350]

Lực lượng nổi dậy bao gồm các tộc người thiểu số ở vùng miền núi như người Hoa, người Nùng: trong đó một số vụ nổi tiếng và kéo dài nhiều năm như cuộc nổi dậy của Lý Văn Phúc (vùng Thái Nguyên); Dương Đình Cúc (vùng Thái Nguyên), Lê Đắc LộcThân Vạn Đồng (vùng Bảo Lộc), Mã Sĩ Anh (vùng Hưng Hóa); các con cháu nhà Lê như Lê Duy Hoán;[337] các nhóm cướp phát triển lên như Cao Văn DũngNguyễn Tình (vùng Sơn TâyHải Dương), Vũ Đình Khanh (vùng Sơn Nam Hạ), các tù trưởng người Mường như Quách Tất Thúc (khu vực Thanh Hóa)...[351]

Một nguyên nhân khiến nhiều cuộc nổi dậy xảy ra là do chính sách thuế khóa và lao dịch. Một giáo sĩ người Pháp tên Guérard nhận xét rằng Gia Long đánh thuế quá nặng lên dân chúng: "Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và lộng hành làm cho người ta rên xiết hơn cả ở thời Tây Sơn; thuế má và lao dịch thì tăng lên gấp ba".[4] Việc xây thành Phú Xuân và đào kênh Vĩnh Tế phải huy động hàng vạn dân phu đi lao dịch. Một người Pháp là Borel viết năm 1818 mô tả việc xây thành Phú Xuân (Huế): “Nhà vua sử dụng tất cả nhân lực vào việc xây tòa thành và các công trình công cộng khác. Khi tôi đến Huế, đã có đến 8 vạn người được điều động từ các nơi trong cả nước đang khẩn trương xây dựng một tòa thành rộng lớn bằng gạch... Riêng việc xây bờ thành đã tốn kém những khoản tiền khổng lồ và làm thiệt hàng ngàn nhân mạng vì phải khổ dịch liên tục... Nhà vua [Gia Long] đã vung ra những món tiền lớn và hy sinh tính mạng của hàng ngàn dân chúng vì họ phải làm việc không nghỉ tay trên các tường lũy của kinh thành. Đây quả là một công trình kỳ diệu. Mười vạn người được thường xuyên huy động”.[4] Sự tham nhũng của quan lại cũng là một nguyên nhân, như Chaigneau người Pháp đã ghi lại năm 1807: “Dân chúng hết sức khốn khổ, vua và quan lại làm khổ dân một cách kỳ lạ; công lý này tùy thuộc tiền bạc, kẻ giàu có thể đánh đập người nghèo mà không sợ bị trừng phạt gì, vì họ tin chắc nhờ tiền bạc họ sẽ thắng kiện".[352]

Đối với người dân tộc thiểu số, vua Gia Long đã ban hành các loại thuế đánh vào lâm thổ sản ở vùng người dân tộc, làm cho "dân Man quanh năm nộp thuế không lúc nào rỗi".[326] Hậu quả là "dân phải nhặt củ rau và quả ở núi để ăn cho no bụng".[327] Các vua đầu thời Nguyễn còn cưỡng bách văn hóa một số dân tộc khi cho rằng: Bọn man mọi ngu dại chưa thấm nhuần phong hóa, cần buộc họ cắt tóc, ăn mặc và sinh hoạt giống như người miền xuôi.[353]

Để đối phó, Gia Long đã ra sức đánh dẹp, thi hành nhiều chính sách vỗ an và cử nhiều tướng tài như Lê Chất, Lê Văn Duyệt lưu đóng ở khu vực Bắc thành nhiều năm nhưng vẫn không sao hết được.[351] Ở các khu vực miền Trung, các phong trào nổi dậy chủ yếu chỉ mang tính lẻ tẻ,[354] tuy cũng có phong trào lớn như là cuộc nổi dậy của người Thượng ở Đá Vách kéo dài qua tận các đời vua sau.[355]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Gia_Long http://www.britannica.com/EBchecked/topic/232868 http://books.google.com/books?id=0LgSI9UQNpwC http://books.google.com/books?id=0LgSI9UQNpwC&pg=P... http://books.google.com/books?id=0Rh2BgAAQBAJ&pg=P... http://books.google.com/books?id=3Z3a0NU4RHMC&pg=P... http://books.google.com/books?id=6VROpoZsMzYC&pg=P... http://books.google.com/books?id=9GRD_GV0kuMC http://books.google.com/books?id=EYInAAAAQBAJ&pg=P... http://books.google.com/books?id=EvqKqpSCpaEC&pg=P... http://books.google.com/books?id=IrNuAAAAMAAJ